Cách đây 28 năm, ngày 10 tháng 10 hàng năm là Ngày Sức khỏe Tâm thần Thế giới. Tuy nhiên, khái niệm trầm cảm đầu tiên đã xuất hiện ở Tây Mesopotamia 4000 năm trước.
Vào thời điểm đó, mọi người nhìn trầm cảm từ góc độ tinh thần hơn là lành mạnh. . Mọi người cho rằng đây là một hiện tượng ma quỷ. Vị linh mục sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để “điều trị” cho bệnh nhân, không phải bác sĩ, từ đột quỵ đến chết đói cho đến trừ tà.
Trong thời đại La Mã, tầm nhìn của cộng đồng tiến bộ và thông cảm hơn. . Họ tin rằng gốc rễ của trầm cảm là sinh học và tâm lý. Các hình thức điều trị hiện nay chủ yếu bao gồm tập thể dục, xoa bóp, ăn uống, nghe nhạc, truyền máu, sử dụng sữa lừa và các loại thuốc chiết xuất từ cây anh túc. Cho đến ngày nay, ăn uống lành mạnh, thư giãn và tập thể dục vẫn được coi là biện pháp tự nhiên hữu hiệu.
Bác sĩ người Ba Tư Rhazes đã đưa ra hàng trăm năm sáng tạo vào năm 800-900 sau Công nguyên. thời gian. Ông cho rằng gốc rễ của bệnh tâm thần nằm ở dây thần kinh nên ông chủ trương áp dụng một liệu pháp hành vi tương tự như liệu pháp hành vi nhận thức ngày nay. Kết quả là, bệnh nhân học cách thay đổi suy nghĩ, thực hiện các hành động không mong muốn, điều chỉnh cảm xúc và phát triển các kỹ năng đối phó để giải quyết các vấn đề nội bộ.
Thời Trung cổ và thời Phục hưng được coi là “một bước tiến.” Thuốc tâm thần trở lại. Bệnh nhân không được điều trị về mặt tình cảm. Cộng đồng lại tin vào sự tồn tại của ma quỷ. Việc xua đuổi tà ma, đốt cọc gỗ, săn phù thủy và thậm chí cả những vụ hành quyết liên tục xảy ra.
Năm 1621, Robert Burton, một nhà nghiên cứu tại Đại học Brasenas và Đại học Oxford, đã chỉ ra trong cuốn “Giải thích về nỗi sầu muộn” rằng lý do chính dẫn đến trầm cảm là do cô đơn và thất nghiệp. Ông nói: “Đừng cô đơn, đừng nhàn rỗi”, đồng thời khuyến khích bệnh nhân tuân theo chế độ ăn uống, sử dụng thảo mộc, tập thể dục và thực hiện liệu pháp âm nhạc.
Trong thế kỷ 19 và 20, Tiến sĩ Sigmund Freud đã đặt nền tảng của phân tâm học. Ông giải thích rằng trầm cảm là một phản ứng đối với sự mất mát. Cảm giác mất mát có thể đến từ thực tế (mất người thân) hoặc trừu tượng (thất bại trong mục tiêu cuộc sống). Vào những năm 1970, bệnh nhân thường được kê đơn imipramine liều cao, đây là một trong những loại thuốc đầu tiên điều trị trầm cảm. Thuốc tuy có hiệu quả nhưng sẽ để lại những tác dụng phụ nghiêm trọng là tăng cân, mệt mỏi và dễ dẫn đến quá liều. Một số liệu pháp điện giật (ECT), một số khác được phân tích tâm lý. , Năm 1890. Ảnh: SCMP
Đối với những người thân bị trầm cảm hoặc đang bị trầm cảm, việc điều trị dường như quá chậm, không thực tế hoặc được nhiều người chấp nhận. Nhưng trên thực tế, trong 40 năm qua, việc điều trị đã có nhiều tiến bộ.
Nhiều loại thuốc chống trầm cảm đã được phát triển. Tuy nhiên, chỉ khoảng 40% bệnh nhân khỏi bệnh sau lần đầu tiên sử dụng thuốc. Các nhà sản xuất dược phẩm liên tục thay đổi công thức của họ.
Nghiên cứu gần đây cho thấy một loại protein cụ thể được gọi là GPR56 có liên quan đến các yếu tố sinh học của bệnh trầm cảm. Tác giả của cuốn sách, Giáo sư Gustavo Turecki của Đại học McGill cho biết: “Việc xác định các chiến lược điều trị mới phải đối mặt với nhiều thách thức. GPR56 là một mục tiêu lý tưởng để phát triển thuốc tiên tiến” – But Royal Psychiatry, London Cựu hiệu trưởng của trường, Tiến sĩ Mike Shooter, quan tâm nhiều hơn đến các yếu tố khác. Ông nói: “Hãy khuyến khích các bác sĩ gia đình khuyến khích bệnh nhân tập thể dục, tham gia các hoạt động xã hội, lớn lên và hỗ trợ người nghèo.” Họ phải thấy rằng họ không đơn độc trong cuộc chiến này. Theo ông, điều này đặc biệt quan trọng trong thời kỳ Covid-19 vì Giữa tình trạng bế tắc, thất nghiệp và cảm giác bất lực nói chung, bệnh nhân cảm thấy cô đơn và đau đớn hơn. Dây thần kinh phế vị (cơ quan điều chỉnh các giác quan của cơ thể). Một phương pháp khác là kích thích từ trường xuyên sọ (TMS). Đây là cách sử dụng nam châm trên da đầu để điều trị các bệnh tâm thần nghiêm trọng không đáp ứng với thuốc. Gần đây, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ cũng Chấp thuận việc sử dụng esketamine đường uống cùng với thuốc chống trầm cảm.-Bác sĩ Sigmund Freud, cha đẻ của thuyết phân tâm học. Ảnh: Research Gate
Trong nhiều thập kỷ, ketamine đã được sử dụng như một loại thuốc gây mê an toàn và hiệu quả. Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy thuốc có thể được sử dụng cho những bệnh nhân bị trầm cảm nặng, chấn thương hoặc có ý định tự tử. Các chuyên gia Mỹ đã ghi nhận trường hợp một bệnh nhân bị trầm cảm nặng được đưa vào bệnh viện tâm thần do bản thân suy sụp và phải điều trị ketamine trong 5 ngày. Một tháng sau, chỉ số Hamilton (thang điểm trầm cảm tiêu chuẩn) của bệnh nhân giảm từ 36/50 xuống 0/50. Hiệu quả kéo dài trong 5 tháng.
Cải thiện lớn nhất là thái độ của công dân thế giới đối với bệnh trầm cảm. Tiến sĩ Lin Zhaolin, một bác sĩ tâm thần người Hồng Kông, nói rằng ý thức của công chúng đã trải qua những thay đổi to lớn trong thập kỷ qua. Người bệnh nhanh chóng tìm đến bác sĩ và hiệu quả điều trị tốt hơn.
Khi ý thức tăng lên, cảm giác xấu hổ giảm đi. “Đặc biệt, những người trẻ tuổi dường như dễ dàng bộc lộ nỗi buồn và sẵn sàng tiếp nhận điều trị hơn. Về mặt kinh nghiệm, đây là một bước tiến lớn và được ủng hộ bởi phong trào người nổi tiếng.” Tiến sĩ Mike Shooter nói.
Thục Linh (theo SCMP)