Một nam thanh niên mắc bệnh vảy nến cả chục năm nay vừa đến Bệnh viện Da liễu Trung ương điều trị cách đây hai tuần, trên thân và lòng bàn chân xuất hiện nhiều nốt dày sừng màu nâu. Thành bụng nổi cục to, có vảy khô.

Bác sĩ phát hiện bệnh nhân có đặc điểm bệnh lý nhiễm độc asen mãn tính, nghi ung thư da làm tổn thương thành bụng. Kết quả giải phẫu bệnh khẳng định nam thanh niên bị ung thư biểu mô tế bào vảy biệt hóa tốt.

Bệnh nhân cho biết đã tự điều trị vảy nến nhiều năm bằng thuốc đông y không rõ nguồn gốc thành thuốc hoàn. Bệnh nhân không có yếu tố nghề nghiệp sử dụng nước máy có thể tiếp xúc với asen trong sinh hoạt. Vì vậy, bác sĩ cho biết, người bệnh rất dễ bị ngộ độc thạch tín do sử dụng thuốc đông y không rõ nguồn gốc để chữa bệnh vảy nến.

Bệnh nhân có các nốt ở bụng và da có vảy. Ảnh: Bệnh viện cung cấp.

Đào Hữu Ghi, trưởng khoa điều trị da nam khoa cho biết, asen vô cơ (kim loại nặng) là một kim loại nặng. Trước đây, thạch tín được sử dụng để điều trị bệnh vảy nến, nhưng các nghiên cứu cho thấy nó có tính độc nên hiện nay không được sử dụng.

Asen vô cơ có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của trẻ em. Ở người, điều này làm tăng nguy cơ ung thư và gây ra tử vong do hấp thụ một lượng asen cao hoặc thấp trong thời gian dài.

Các tế bào tiếp xúc với điều kiện asen thấp trong một thời gian dài có thể giao tiếp với nhau, theo các nhà nghiên cứu tại Đại học Dartmouth, và giảm chức năng của chúng. Asen vô cơ có thể thúc đẩy sự phát triển của các bệnh về thận, ung thư, tim và phổi. Tăng nguy cơ ung thư da, ung thư bàng quang và ung thư phổi. – Theo bác sĩ Byrne, bệnh vẩy nến là một bệnh mãn tính, bệnh có thể phát đột ngột, nếu thường xuyên kiểm tra sức khỏe, tuân thủ lời khuyên của bác sĩ và có lối sống lành mạnh.

“Nhiều bệnh nhân có xu hướng sử dụng thuốc không rõ thành phần mà bỏ qua. Căn nguyên của căn bệnh này khiến căn bệnh này không thể chữa khỏi mà còn rất nguy hiểm. Bác sĩ Ji gợi ý. ——Với 1,5 bệnh vẩy nến ở Việt Nam Dân số chiếm 2% tổng dân số, tỷ lệ mắc bệnh của nam và nữ là như nhau, cơ chế bệnh sinh bao gồm tính mẫn cảm do di truyền, sự phá huỷ các yếu tố miễn dịch và các yếu tố môi trường. Nếu bố hoặc mẹ bị bệnh thì khoảng 8% con bị bệnh, nhiều nhất là 41 % Trẻ em bị bệnh.