Bài viết sau đây được xuất bản bởi Phó giáo sư Nguyễn Vũ Trung, Phó Giám đốc Bệnh viện Nhiệt đới Quốc gia, Khoa Vi sinh-Ký sinh trùng lâm sàng, Đại học Y Hà Nội, cung cấp thông tin về xét nghiệm nCoV. -Việt Nam đã bước vào giai đoạn thứ ba của đại dịch chống Covid-19, và nguy cơ lây lan ra cộng đồng là rất cao. Trong trường hợp không có phương pháp điều trị và vắc-xin cụ thể, xét nghiệm là công cụ hữu ích nhất để chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa sự lây lan của vi-rút.

Có hai kỹ thuật kiểm tra chính cần được kiểm tra. SARS-CoV-2 (nCoV) liên quan đến việc phát hiện virus thông qua vật liệu di truyền virus (RNA nucleic acid) và phát hiện phản ứng miễn dịch với virus.

Thông qua công nghệ khuếch đại gen để phát hiện RNA để hiểu tình trạng nhiễm trùng nhằm chẩn đoán, điều trị và giúp chẩn đoán, điều trị, quản lý và ngăn ngừa nhiễm trùng.

Phát hiện các kháng thể đặc hiệu nCoV Thông tin có giá trị về những người bị nhiễm virut, người nhiễm bệnh, xét nghiệm kháng thể và giám sát dịch tễ học. -Both nhóm là tốt cho cá nhân, tổ chức y tế và cộng đồng. Tuy nhiên, việc phát hiện các kháng thể cụ thể chỉ hữu ích khi được sử dụng trên những người bị nhiễm bệnh hoặc có miễn dịch bảo vệ.

Nhân viên y tế lấy mẫu xét nghiệm nhanh từ huyện Đống Đa Hà Nội vào ngày 3/31. Ảnh: Giang Huy .

Công nghệ phát hiện và kiểm tra RNA

Chúng tôi chủ yếu sử dụng công nghệ khuếch đại phân tử để phát hiện nCoV thông qua công nghệ sinh học phân tử. Kỹ thuật được sử dụng phổ biến nhất là PCR (phản ứng chuỗi polymerase). Những kỹ thuật này có thể phát hiện sự hiện diện của RNA trong các mẫu bệnh nhân từ bệnh nhân hoặc bệnh nhân nghi ngờ bị nhiễm virus.

Các mẫu được sử dụng phổ biến nhất là chất lỏng trong vòm họng (hầu họng) và hầu họng (oropharynx). Người lấy mẫu sử dụng thiết bị đặc biệt để đưa mũi đến một độ sâu nhất định, hoặc lấy mẫu bằng miệng. Nên sử dụng hai loại mẫu này để thử nghiệm để giúp phát hiện chính xác nCoV. Chất lỏng được thu thập trong ống nghiệm trong môi trường lưu trữ, sau đó được vận chuyển đến phòng thí nghiệm để xử lý, tách vật liệu di truyền và thực hiện công nghệ PCR sao chép ngược thời gian thực. Ngoài hai chất lỏng trên, một số chất tiết từ đường hô hấp dưới, chẳng hạn như đờm, dịch rửa phế quản … cũng được sử dụng trong việc kiểm tra bệnh nhân bị viêm phổi. Tỷ lệ phát hiện nCoV trong mỗi mẫu bệnh nhân sẽ khác nhau đối với từng mẫu bệnh nhân trong cùng một bệnh nhân và tỷ lệ phát hiện nCoV trong mẫu của mỗi người cũng sẽ khác nhau. Đặc biệt, khả năng phát hiện virus cũng sẽ thay đổi trong thời gian bị bệnh. Một số bệnh nhân bị viêm phổi có thể âm tính với virus hoặc virus mũi họng, nhưng xét nghiệm đường hô hấp dưới hoặc các mẫu khác (như phân) có thể dương tính. — Do đó, rất khó để xác định chính xác độ nhạy của thử nghiệm trong thực tế của bất kỳ công nghệ nào, và tất nhiên nó không được mong đợi 100% về mặt lý thuyết. Kết quả xét nghiệm âm tính không có nghĩa là bạn không bị nhiễm vi-rút. Một kết quả tích cực nên xem xét khả năng dương tính giả. Do đó, điều rất quan trọng là kết hợp xét nghiệm với đánh giá các yếu tố lâm sàng và lịch sử dịch tễ học. Hơn nữa, sự hiện diện của RNA không có nghĩa là virus vẫn còn sống và có thể tồn tại. Xâm nhập vào cơ thể người không có nghĩa là virut có thể lây từ người sang người. Tuy nhiên, việc phát hiện RNA từ các mẫu bệnh nhân của nCoV vẫn là công nghệ ngày nay để xác định dân số nhiễm bệnh tốt nhất.

Độ chính xác của công nghệ cũng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau, chẳng hạn như thu thập mẫu. Liệu nó có ở đúng vị trí, đủ tải lượng virut, tải lượng virut trong dịch bệnh hay không, liệu mẫu được vận chuyển, được lưu trữ để đảm bảo các điều kiện tốt nhất, cho dù quá trình xử lý mẫu có đáp ứng các quy định hay không, liệu RNA virus có bị phá hủy hay không, liệu các bước phát hiện có phù hợp với thí nghiệm không Các yêu cầu hệ thống quản lý chất lượng của phòng thí nghiệm đã được xử lý? Nếu tất cả các yếu tố này được đảm bảo, xét nghiệm phát hiện nCoV sẽ có hiệu quả, giúp xác định người nhiễm bệnh, chẩn đoán, điều trị, theo dõi và quản lý bệnh nhân và cộng đồng. Nó được lưu trữ trong một ống lưu trữ tại sân bay Nội Bài ở Hà Nội vào ngày 18 tháng 3. Ảnh: Giang Huy .

Sử dụng công nghệ kiểm tra thông thường, đặc biệt là công nghệ chẩn đoán nCoV, vẫn còn nhiều vấn đề, thách thức và vấn đề chưa đạt được sự đồng thuận. Điều này là bình thường, bởi vì nCoV là mới và khoa học cần thời gian để nghiên cứu, nâng cao hiểu biết để cải thiện, hoàn thiện công nghệ, tăng độ nhạy, độ đặc hiệu và giá trị thử nghiệm. Giả sử rằng nCoV có thểĐể lây nhiễm cho bất kỳ ai và khiến virus lây lan trước khi người nhiễm bệnh có triệu chứng, ngay cả khi không có nhiễm virus, một khi chúng tôi đã ghi lại lịch sử nhiễm trùng, việc phát hiện nhiễm virus cũng rất quan trọng. Phơi nhiễm, phơi nhiễm …

Có bao nhiêu xét nghiệm nên được thực hiện cho những người âm tính trong thử nghiệm đầu tiên để họ không bị nhiễm bệnh hoặc “không có vi-rút”. Vẫn chưa có câu trả lời rõ ràng và cần thêm nghiên cứu. Sự cần thiết và cập nhật các khuyến nghị chẩn đoán, điều trị và giám sát tại các cơ sở và cộng đồng phụ thuộc vào tình hình thực tế của quốc gia, khu vực và khu vực. Và bất cứ nơi đâu.

Có nhiều loại sản phẩm sinh học và hóa học (gọi chung là xét nghiệm) có thể giúp phát hiện nCoV. Nó cũng mang đến những thách thức mới, như hiểu rõ hơn về các tính năng kiểm tra, tối ưu hóa các bài kiểm tra và khả năng theo dõi các thay đổi của virus. Cuối cùng, chúng ta cần thường xuyên sắp xếp các gen để theo dõi đột biến, đột biến virus.

Với việc tăng yêu cầu kiểm tra, việc giảm thời gian trả về kết quả kiểm tra đóng vai trò rất quan trọng. Điều quan trọng là chăm sóc tốt hơn cho bệnh nhân và nhân viên y tế. Do đó, việc phát triển các xét nghiệm chẩn đoán nhanh nên được ưu tiên. Các phép đo tải lượng virus cũng có thể được sử dụng để theo dõi sự phục hồi, đáp ứng với điều trị và / hoặc đánh giá mức độ nhiễm trùng.

Ngoài việc kiểm tra, chuỗi cung ứng hóa chất và vật tư tiêu hao (bao gồm tăm bông cho dịch mũi họng, hóa chất chiết RNA, hóa chất PCR, ngay cả khi chúng đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt Thử nghiệm thương mại, vẫn còn sự chậm trễ trong việc lắp đặt máy móc và cung cấp thuốc sinh hóa ở nhiều quốc gia. Hiện tại, để giải quyết các thách thức mua sắm và đảm bảo tính liên tục và an toàn của các vấn đề thử nghiệm, mọi người đã đầu tư rất nhiều nỗ lực vào nhiều khía cạnh. — Ngoài nhiều xét nghiệm sinh học phân tử để phát hiện RNA, nhiều nhà khoa học và công ty cũng đã nghiên cứu và phát triển các công nghệ xét nghiệm khác, như phát hiện IgM, IgA, IgG hoặc kháng thể trong máu (có thể được gọi là xét nghiệm máu). .

Cơ sở lấy mẫu nhanh ở quận Đống Đa Hà Nội vào ngày 31 tháng 3. Ảnh: Giang Huy .

Trong các bệnh truyền nhiễm, sự hình thành kháng thể phụ thuộc vào thời gian lây nhiễm và vật chủ. Đối với dịch Covid-19, Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng hầu hết bệnh nhân bắt đầu sản xuất kháng thể trong máu từ 7 đến 11 ngày sau khi nhiễm bệnh. Do phản ứng muộn với nCoV, xét nghiệm kháng thể không phù hợp với các bệnh cấp tính.

– Nghiên cứu có thể chắc chắn sau khi bị nhiễm trùng. NCoV có bảo vệ một phần hay toàn bộ chống lại nhiễm trùng trong tương lai.

Sinh học phân tử và kỹ thuật huyết thanh học rất hữu ích để phát hiện người nhiễm bệnh, chẩn đoán, điều trị và nghiên cứu các bệnh nCoV và Covid-19. Ngoài bệnh lý và dịch tễ học, công nghệ phòng thí nghiệm cũng đóng vai trò quyết định. Ngoài ra, các biện pháp nghiêm trọng như “xa cách xã hội” cũng là yếu tố quyết định trong cuộc chiến chống lại dịch bệnh này.